CÁC BẢN CHÉP TAY CỦA KINH THÁNH

Trước khi các Kinh Thánh nguyên bản (bản viết tay gốc) biến mất, các bản viết tay (khác với bản in) đã được sao viết trên giấy cói, giấy da và da thú. Những bản sao này được gọi là các bản thảo (bản thảo được viết tắt của từ “bản viết tay”) và những bản thảo này có số lượng lên đến hàng chục nghìn bản. Bởi vì số lượng và niên đại sớm của các bản thảo này đã mang lại cho các học giả sự tự tin rằng các bản Kinh Thánh mà chúng ta có ngày nay về cơ bản là giống với Kinh Thánh nguyên thủy.

Các giai đoạn

Lưu Truyền Kinh Thánh

Các bản thảo Cựu Ước

Trước năm 1947, khi các Cuộn Biển Chết được phát hiện, số lượng bản thảo Cựu Ước thời kỳ đầu khá ít. Ngày nay, số lượng bản thảo Cựu Ước đã lên đến hàng chục nghìn bản. Dưới đây là một số ví dụ:

Cuộn Bạc Ketef Hinnom

Năm 1980, hai cuộn bạc nhỏ với chữ viết Hê-bơ-rơ đã được phát hiện ở phía nam Giê-ru-sa-lem trong một khu mộ. Các cuộn này chứa một số đoạn của Cựu Ước (ví dụ, Dân Số Ký 6:24-26; một số đoạn của Phục Truyền Luật Lệ Ký, Đa-ni-ên, Xuất Ê-díp-tô Ký, và Nê-hê-mi-a). Hiện nay, các cuộn này là các đoạn văn Cựu Ước cổ xưa nhất còn tồn tại, có niên đại khoảng năm 600 TCN.

Cuộn Biển Chết

Từng cuốn sách của Cựu Ước Hê-bơ-rơ (trừ sách Ê-xơ-tê) đã được phát hiện từ năm 1947-1956 tại Qumran trong 11 hang động trên bờ Biển Chết. Những cuộn cổ xưa nhất trong số này có niên đại từ thế kỷ 3 TCN.

Bản Septuaginta (LXX)

LXX là bản dịch tiếng Hy Lạp của Cựu Ước Hê-bơ-rơ, hoàn thành tại Alexandria, Ai Cập, trong khoảng thế kỷ 3-2 TCN, và trở thành Kinh Thánh của Đức Giê-su, các sứ đồ và người Do Thái nói tiếng Hy Lạp trên khắp Đế quốc La Mã.

Cairo Genizah

Năm 1890, hàng nghìn bản thảo Cựu Ước đã được tìm thấy ở Cairo, Ai Cập, có niên đại từ khoảng năm 500-800 sau Công Nguyên. Ngày nay, các bản thảo này được phân tán khắp thế giới trong các bộ sưu tập khác nhau.

Codex Aleppo

Chứa toàn bộ Cựu Ước Hê-bơ-rơ trên giấy da, có niên đại khoảng năm 925 SCN.

Codex Leningradensis

Trước năm 1947, Codex Leningradensis là bản thảo giấy da cổ nhất chứa toàn bộ Cựu Ước, có niên đại khoảng năm 1008 SCN.

Các bản thảo Tân Ước

Có khoảng từ 26,000 đến 30,000 bản thảo Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp và các ngôn ngữ khác. Chúng có niên đại từ đầu thế kỷ 2 SCN và kéo dài đến thế kỷ 16 SCN. Riêng các bản thảo tiếng Hy Lạp đã đạt hơn 5,860 bản, bao gồm giấy cây, các bản kinh ngày, và giấy da, cùng với số lượng bản thảo viết bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Hy Lạp.

Bản thảo giấy cây tiếng Hy Lạp

Các bản thảo giấy cây Tân Ước khá ít nhưng rất quan trọng, phản ánh những bản sao sớm nhất của Tân Ước và có niên đại từ thế kỷ 2-3 SCN. Trong số các bộ sưu tập này có các cuộn giấy cây Oxyrhynchus, Bodmer, và Chester Beatty, với bản thảo sớm nhất là Mảnh giấy John Rylands (P52-một trong những bản thảo Tân Ước sớm nhất từ khoảng năm 117-135 SCN), chứa một phần của Giăng 18:31-33, 37-38.

Các bản Kinh Ngày

Các bản Kinh Ngày là các sách hướng dẫn được sử dụng suốt năm trong các nghi lễ của nhà thờ, và các bản Kinh Ngày này chứa các đoạn Kinh Thánh viết bằng tiếng Hy Lạp. Có hơn 2,200 bản ghi chép quý giá này, có niên đại từ thế kỷ 4-12 SCN.

Các trích dẫn sớm của nhà thờ thời kỳ đầu

Các Giáo phụ của Hội Thánh trong thời đầu đã trích dẫn gần như mọi sách của Tân Ước vào cuối thế kỷ 2 SCN. Ngày nay, chúng ta có thể tái tạo lại phần lớn Tân Ước với những trích dẫn sớm này, mang lại một lời chứng quý giá về tính chính xác của văn bản chúng ta có ngày nay.

Codex Vaticanus

Năm 1475, Thư viện Vatican đăng ký Codex Vaticanus (AD 325-350), chứa hầu hết các sách của Kinh Thánh Cũ (LXX) và toàn bộ Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp. Bản thảo quý giá này chứa văn bản Tân Ước hoàn chỉnh sớm nhất.

Codex Sinaiticus

Được Constantine von Tischendorf phát hiện tại Tu viện St. Catherine (Ai Cập) trong các chuyến thăm từ năm 1844-1859, Codex Sinaiticus (AD 350) là một bản thảo tiếng Hy Lạp chứa hơn một nửa Kinh Thánh Cũ (LXX) và toàn bộ Tân Ước.

Các bản thảo Tân Ước

Có khoảng từ 26,000 đến 30,000 bản thảo Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp và các ngôn ngữ khác. Chúng có niên đại từ đầu thế kỷ 2 SCN và kéo dài đến thế kỷ 16 SCN. Riêng các bản thảo tiếng Hy Lạp đã đạt hơn 5,860 bản, bao gồm giấy cây, các bản kinh ngày, và giấy da, cùng với số lượng bản thảo viết bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Hy Lạp.